Tham chiếu bằng đường link trong hợp đồng tại Việt Nam

Việc tham chiếu đến một tài liệu trong một hợp đồng bằng cách dẫn một liên kết internet đến chính tài liệu đó (ví dụ, chính sách bảo mật hoặc các điều khoản tiêu chuẩn của trang web) tương đối phổ biến. Việc áp dụng cách thức này có hiệu lực theo pháp luật Việt Nam. Điều này là do:

· Theo Bộ Luật Dân Sự 2015, một hợp đồng có thể có phụ lục kèm theo để quy định chi tiết một số điều khoản và điều kiện của hợp đồng. Luật không có quy định rõ ràng về hình thức của phụ lục hợp đồng và việc tham chiếu đến liên kết internet trong hợp đồng chính có thể được diễn giải theo nghĩa rộng và bao quát của từ “kèm theo”.

Hướng dẫn mới về đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và công trình xây dựng - Phần 1

Ngày 25 tháng 11 năm 2019, Bộ Tư pháp (BTP) đã ban hành Thông Tư 7 hướng dẫn một số nội dung về thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (Thông Tư 7/2019). Thông Tư 7/2019 sẽ có hiệu lực từ ngày 10 tháng 1 năm 2020 và thay thế Thông Tư liên tịch số 9 của BTP và Bộ Tài nguyên và Môi trường (BTNMT) ngày 23 tháng 6 năm 2016 (TTLT 9/2016) về cùng một vấn đề. Nhìn chung, Thông Tư 7/2019 chỉ đưa ra một số quy định hướng dẫn và bổ sung cho Nghị Định 102 của Chính Phủ ngày 1 tháng 9 năm 2017 (Nghị Định 102/2017) thay vì cung cấp hướng dẫn chi tiết như TTLT 9/2016.

Cơ quan có thẩm quyền quản lý việc đăng ký thế chấp

Trước đây, văn bản quy định chi tiết hoạt động đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thường là thông tư liên tịch của BTP và BTNMT. Tuy nhiên, vì thông tư liên tịch không còn là một loại văn bản quy phạm pháp luật theo Luật Ban Hành Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật 2015. Do đó, thẩm quyền quản lý thống nhất việc đăng ký biện pháp bảo đảm được trao cho BTP. Theo Nghị Định 102/2017, BTP hiện có thẩm quyền ban hành hoặc trình Chính Phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký biện pháp bảo đảm, bao gồm cả Thông Tư 7/2019.

Cấu trúc hợp đồng cho quản lý cấp cao tại Việt Nam - Phần 2

Khi một công ty thuê một quản lý cấp cao, công ty thường muốn (1) thuê người quản lý chỉ trong một thời hạn xác định, và (2) có thể linh hoạt trong việc sa thải người quản lý cấp cao nếu người đó không thể hiện được như kỳ vọng.  Tuy nhiên, theo Bộ Luật Lao Động 2012, một hợp đồng có thời hạn được giới hạn trong ba năm, và để sa thải hoặc thay đổi công việc của một người lao động, người sử dụng lao động phải đáp ứng các điều kiện nghiêm ngặt khác nhau.

Để khắc phục những hạn chế này, người sử dụng lao động có thể nêu rõ trong hợp đồng lao động với người quản lý cấp cao rằng người quản lý cấp cao được tuyển dụng để làm việc cho hai công việc khác nhau. Hai công việc này là:

· Công việc cấp cao mà người lao động được tuyển dụng để thực hiện. Người quản lý cấp cao sẽ được hưởng lương và các lợi ích liên quan đến công việc cấp cao đó; và

Cấu trúc hợp đồng cho Quản lý cấp cao tại Việt Nam - Phần 1

Một hợp đồng lao động tốt cho một vị trí cấp cao, giống như bất kỳ hợp đồng lao động nào khác, là hợp đồng có thể cân bằng giữa nhu cầu của người sử dụng lao động và người lao động. Một nhân viên cấp cao thường tìm kiếm mức lương hấp dẫn, các ưu đãi, lợi ích, trong khi các vấn đề như không cạnh tranh và bảo mật là mối quan tâm chính của người sử dụng lao động. Mặt khác, cả hai bên có thể muốn một số điều tương tự trong hợp đồng lao động, ví dụ, hợp đồng dài hạn (thời hạn xác định hoặc không xác định), khả năng chấm dứt hợp đồng mà không cần lý do, bồi thường cho việc chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, v.v. .

Thật không may là luật lao động Việt Nam có một số hạn chế nhất định hạn chế các bên, đặc biệt là phía người sử dụng lao động trong việc xác lập một hợp đồng lao động có thể phản ánh chính xác nhu cầu thương mại của mình. Điều này là do Bộ Luật Lao Động 2012 được soạn thảo theo hướng có lợi cho phía người lao động do quan điểm của Nhà nước cho rằng người lao động là bên yếu thế hơn trong mối quan hệ lao động.