Việc sử dụng các căn cứ ngoài điều khoản hợp đồng (extrinsic evidence) để giải thích hợp đồng theo Pháp luật Việt Nam

“Căn cứ ngoài điều khoản hợp đồng” (extrinsic evidence) có tồn tại theo pháp luật Việt Nam không?

Pháp luật Việt Nam không giải quyết cụ thể khái niệm “căn cứ ngoài điều khoản hợp đồng”. Căn cứ ngoài điều khoản hợp đồng thường được hiểu là căn cứ liên quan đến hợp đồng nhưng không xuất hiện trong nội dung các điều khoản được thể hiện trên hợp đồng vì nó xuất phát từ các căn cứ khác, chẳng hạn như tuyên bố giữa các bên hoặc các hoàn cảnh tiến hành thỏa thuận.

Tuy nhiên, Điều 404.1 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:

Khi hợp đồng có điều khoản không rõ ràng thì việc giải thích điều khoản đó không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí của các bên được thể hiện trong toàn bộ quá trình trước, tại thời điểm xác lập, thực hiện hợp đồng.”

Theo đó, Bộ luật Dân sự 2015 cho phép sử dụng căn cứ ngoài điều khoản hợp đồng làm nguồn giải thích hợp đồng.

Dự Thảo Nghị Định Mới Về Biện Pháp Bảo Đảm Tại Việt Nam

Vào tháng 9 năm 2020, Bộ Tư Pháp (BTP) công bố Dự Thảo Nghị Định (Dự Thảo Nghị Định) về biện pháp bảo đảm như thế chấp, hoặc cầm cố tại Việt Nam. Một khi được ban hành, Dự Thảo Nghị Định sẽ thay thế cho Nghị Định 163/2006 điều chỉnh cùng một vấn đề. Một vài thay đổi quan trọng được thảo luận dưới đây:

· Căn cứ pháp lý của Nghị Định – Không giống như Nghị Định 163/2006 chỉ hướng dẫn thi hành Bộ Luật Dân Sự 2005, Dự Thảo Nghị Định được nêu là để hướng dẫn thi hành Luật Đất Đai 2013 và Luật Nhà Ở 2014 về giao dịch bảo đảm.

· Quyền tự quyết của các bên – Dự Thảo Nghị Định dường như cho phép các bên trong một giao dịch bảo đảm được thỏa thuận về bất kỳ vấn đề nào liên quan đến giao dịch bảo đảm miễn là thỏa thuận đó tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Bộ Luật Dân Sự 2015. Tuy nhiên, không rõ liệu các bên có thể thỏa thuận không tuân theo các quy định của Dự Thảo Nghị Định miễn là thỏa thuận đó tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Bộ Luật Dân Sự 2015 hay không.

· Yêu cầu linh hoạt về mặt hình thức – Dự Thảo Nghị Định cho phép một giao dịch bảo đảm được tồn tại dưới dạng một hợp đồng bảo đảm tách biệt, một phần của một hợp đồng khác, giấy ủy quyền, hoặc văn bản cam kết đơn phương trừ trường hợp hạn chế bởi luật.

Nghĩa vụ chứng minh liên quan đến nghĩa vụ hạn chế tổn thất trong trường hợp có yêu cầu bồi thường thiệt hại theo pháp luật hợp đồng Việt Nam

Theo Luật Thương Mại 2005, khi bên bị vi phạm yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm sẽ có nghĩa vụ hạn chế tổn thất mà mình phải gánh chịu (Trách Nhiệm Hạn Chế Tổn Thất). Tuy nhiên, Luật Thương Mại 2005 chưa quy định cụ thể liệu trách nhiệm chứng minh việc bên bị vi phạm đã (hoặc chưa) hoàn thành Trách Nhiệm Hạn Chế Tổn Thất sẽ thuộc về bên vi phạm hay bên bị vi phạm. Mặc dù vậy, có khả năng bên vi phạm sẽ có trách nhiệm chứng minh rằng bên bị vi phạm đã không hạn chế các thiệt hại mà bên đó phải gánh chịu.

Một mặt, có thể lập luận rằng bên bị vi phạm sẽ có nghĩa vụ chứng minh rằng mình đã thực hiện Trách Nhiệm Hạn Chế Tổn Thất bởi Điều 304 Luật Thương Mại 2005 quy định rằng bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh được “tổn thất, mức độ tổn thất” gây ra bởi hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm. Như vậy, có thể hiểu rằng, “mức độ tổn thất” phải được chứng minh bởi bên bị vi phạm sẽ không bao gồm khoản tổn thất đã có thể được hạn chế nếu bên bị vi phạm đã hoàn thành Trách Nhiệm Hạn Chế Tổn Thất ( hay tất cả các biện pháp hợp lý đã được tiến hành nhằm hạn chế tổn thất). Nói cách khác, để chứng minh hoặc yêu cầu bên vi phạm bồi thường một khoản thiệt hại cụ thể, bên bị vi phạm phải tính đến yếu tố Trách Nhiệm Hạn Chế Tổn Thất của mình đã được hoàn thành và sẽ có trách nhiệm chứng minh mình đã tuân thủ Trách Nhiệm Hạn Chế Tổn Thất.

“Tổn thất thực tế và trực tiếp” do vi phạm hợp đồng liệu có bao gồm các tổn thất bên bị vi phạm phải gánh chịu theo một hợp đồng khác với bên thứ ba không?

Theo Luật Thương Mại 2005, giá trị thiệt hại mà bên bị vi phạm có thể yêu cầu bồi thường do hành vi vi phạm hợp đồng sẽ bao gồm (i) giá trị “tổn thất thực tế, trực tiếp” mà bên bị vi phạm phải gánh chịu do bên vi phạm gây ra và (ii) “khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng” nếu không có hành vi vi phạm đó. Rõ ràng, khoản tiền mà bên bị vi phạm phải bồi thường cho bên thứ ba (ví dụ: khách hàng của bên bị vi phạm) do hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm (Thiệt Hại Với Bên Thứ Ba) sẽ không được coi là lợi nhuận bị mất theo điểm (ii). Tuy nhiên, không rõ liệu và bằng cách nào mà Thiệt Hại Với Bên Thứ Ba có thể được bao gồm trong “tổn thất thực tế và trực tiếp” (Tổn Thất Trực Tiếp) mà bên bị vi phạm phải gánh chịu.

Luật Thương Mại 2005 cũng không quy định chi tiết hơn về cách xác định Tổn Thất Trực Tiếp. Bộ Luật Dân Sự 2015 đưa ra một danh sách liệt kê các thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ/hợp đồng, mà có thể sử dụng để xác định loại tổn thất này, bao gồm: