Ký lại Hợp đồng thuê đất với Nhà nước trong trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Việt Nam

Tại Việt Nam, thuê đất trực tiếp từ Nhà nước là một hình thức phổ biến để nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ). Điều này có nghĩa là một người, với tư cách là “người sử dụng đất”, cần phải ký hợp đồng thuê đất (HĐTĐ) với Nhà nước, theo đó họ có nghĩa vụ trả tiền thuê đất. Tùy thuộc vào lựa chọn của người sử dụng đất, tiền thuê đất có thể trả một lần cho cả thời hạn thuê hoặc trả hằng năm. Đối với lựa chọn thứ nhất, luật đất đai cho phép người sử dụng đất (Bên Chuyển Nhượng) chuyển nhượng QSDĐ của mình cho một chủ thể khác (Bên Nhận Chuyển Nhượng) thông qua việc chuyển nhượng hoặc góp vốn bằng QSDĐ (gọi chung là chuyển nhượng). Tuy nhiên, luật không quy định rõ về việc liệu Bên Nhận Chuyển Nhượng có cần ký HĐTĐ mới với Nhà nước sau khi tiến hành việc chuyển nhượng QSDĐ hay không. Cụ thể là,

· Một mặt, luật đất đai quy định rõ rằng Bên Nhận Chuyển Nhượng nhận quyền sử dụng đất thông qua việc mua tài sản gắn liền với đất cho thuê trả tiền hằng năm phải ký HĐTĐ mới với Nhà nước. Mặt khác, luật đất đai còn bỏ ngỏ về yêu cầu phải ký lại HĐTĐ trong trường hợp Bên Nhận Chuyển Nhượng nhận quyền sử dụng đất gắn với với đất thuê thu tiền thuê đất một lần cho toàn bộ thời gian thuê. Không rõ liệu điều này có đồng nghĩa với việc không có yêu cầu bắt buộc về việc ký lại HĐTĐ với Nhà nước; và

QUY ĐỊNH VỀ CHỮ KÝ SỐ TẠI VIỆT NAM

Thế giới đã chứng kiến bước tiến nhảy vọt trong các hoạt động thương mại điện tử và các hoạt động trực tuyến (họp trực tuyến, ký kết các hợp đồng điện tử, ký kết các nghị quyết điện tử) trước tình hình đại dịch Covid-19 toàn cầu và Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Bài viết sẽ bàn luận về một vài đặc tính của chữ ký số và việc chứng thực chữ ký số theo luật pháp Việt Nam.

1) Nhìn chung, pháp luật Việt Nam thừa nhận tính hợp pháp của hợp đồng điện tử và chữ ký điện tử theo điều kiện luật định. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ thể, trên thực tế chữ ký số (trái với các dạng chữ ký điện tử thông thường khác) có thể được các bên đặc biệt yêu cầu vì tính bảo mật của loại chữ ký này. Chữ ký số là một loại chữ ký điện tử được tạo ra bằng sự biến đổi thông điệp dữ liệu sử dụng hệ thống mật mã không đối xứng, theo đó, người có được thông điệp dữ liệu ban đầu và khóa công khai của người ký có thể xác định được chính xác (a) việc biến đổi này được tạo ra bằng đúng khóa bí mật tương ứng với khóa công khai trong cùng một cặp khóa và (b) sự toàn vẹn của nội dung thông điệp kể từ khi thực hiện sự biến đổi này (Điều 3.6, Nghị Định 130 của Chính Phủ ngày 27 tháng 9 năm 2018 hướng dẫn Luật Giao Dịch Điện Tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số (Nghị Định 130/2018))

Pháp luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài trong trường hợp không được lựa chọn rõ ràng tại Việt Nam

Theo pháp luật Việt Nam, trong trường hợp hợp đồng giữa một bên Việt Nam và một bên nước ngoài (i) lựa chọn pháp luật Việt Nam là pháp luật điều chỉnh cho toàn bộ hợp đồng, (ii) lựa chọn trọng tài nước ngoài làm cơ chế giải quyết tranh chấp, nhưng (iii) không quy định rõ pháp luật điều chỉnh của thỏa thuận trọng tài, có khả năng pháp luật của nước là địa điểm giải quyết tranh chấp (không phải pháp luật Việt Nam) sẽ là pháp luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài đó. Điều này là bởi:

· Tương tự như nguyên tắc về tính độc lập của điều khoản trọng tài đối với hợp đồng chính được chấp nhận rộng rãi trong thông lệ của trọng tài thương mại quốc tế, Luật Trọng Tài Thương Mại 2010 cũng quy định rằng thỏa thuận trọng tài “hoàn toàn độc lập” với hợp đồng chính. Theo đó, pháp luật điều chỉnh hợp đồng chính không nên được mặc định là pháp luật điều chỉnh của thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, Luật Trọng Tài Thương Mại 2010 không xác định rõ pháp luật nào sẽ là pháp luật điều chỉnh đối với thỏa thuận trọng tài trong trường hợp nói ở phần đầu. Điều này khác với Quan Điểm của hệ thống pháp luật thông luật mà theo đó pháp luật điều chỉnh hợp đồng sẽ là pháp luật điều chỉnh của thỏa thuận trọng tài trừ trường hợp có chứng cứ cho điều ngược lại; và

Các nguyên tắc giải thích hợp đồng theo luật Việt Nam

Theo pháp luật Việt Nam, các nguyên tắc giải thích hợp đồng phần lớn được quy định tại Điều 404 Bộ Luật Dân Sự 2015. Theo điều này, thứ tự ưu tiên trong giải thích hợp đồng dường như là (1) “ý chí chung” của các bên; (2) ngôn từ của hợp đồng; và (3) ý chí của từng bên và tập quán. Cụ thể:

· Ý chí chung được ưu tiên hơn so với ngôn từ của hợp đồng, và do đó chiếm vị trí ưu tiên cao nhất trong giải thích hợp đồng. Điều này là bởi theo Điều 404.5, trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa “ý chí chung” của các bên với ngôn từ sử dụng trong hợp đồng, thì ý chí chung của các bên sẽ được dùng để giải thích hợp đồng.

· Khác với các nguyên tắc của thông luật, theo Bộ Luật Dân Sự 2015, việc xác định “ý chí chung” của các bên là một công việc mang tính chủ quan (trái ngược với công việc mang tính khách quan sử dụng tiêu chuẩn của một người bình thường), đòi hỏi phải xem xét ý chí của các bên trước và tại thời điểm ký và thực hiện hợp đồng. Do đó, sẽ rất khó để xác định “ý chí chung” của các bên nếu không có bằng chứng xác thực về ý chí chung đó.