Quyền Sử Dụng Đất Có Được Coi Là Bất Động Sản Theo Pháp Luật Việt Nam?

Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, có khả năng “quyền sử dụng đất” được coi là “bất động sản”. Các luận điểm sau đây hỗ trợ quan điểm cho rằng quyền sử dụng đất là bất động sản theo pháp luật Việt Nam:

·         Quyền sử dụng đất (QSDĐ) là quyền tài sản, cũng chính là tài sản. Tài sản được chia thành động sản và bất động sản. Các bất động sản được xác định bao gồm: (i) Đất; (ii) Nhà và công trình xây dựng gắn liền với đất; (iii) Các tài sản khác gắn liền với đất, nhà hoặc công trình xây dựng; và (iv) các tài sản khác theo quy định của pháp luật.  

·         Về mục (iv) nêu trên, QSDĐ được quy định theo Điều 5.4 của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2014 dưới dạng “bất động sản đưa vào kinh doanh”. Quan điểm này cũng được Tiến sĩ Đỗ Văn Đại áp dụng trong cuốn sách về Bộ Luật Dân Sự 2015.

·         Về mục (iii), Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn coi QSDĐ là bất động sản vì chúng là “tài sản gắn liền với đất”.

·         Tại Án Lệ 26/2018, Tòa Án Tối Cao đã áp dụng thời hiệu 30 năm đối với yêu cầu chia thừa kế bất động sản trong tranh chấp bao gồm QSDĐ. Có thể cho rằng, Tòa Án Tối Cao đã đưa ra quan điểm rằng QSDĐ là bất động sản.

Các luận điểm sau đây hỗ trợ quan điểm cho rằng quyền sử dụng đất không phải là bất động sản theo pháp luật Việt Nam:

·         Dựa trên sự thay đổi về câu chữ của Điều 5.4 của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2014 so với Điều 6.1(b) của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2006, không còn rõ liệu QSDĐ có phải là bất động sản đưa vào kinh doanh hay không. Câu chữ của Điều 5.4 của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2014 có thể được hiểu là: đất (mà có quyền sử dụng được phép chuyển nhượng, cho thuê hoặc cho thuê lại theo luật đất đai) là bất động sản đưa vào kinh doanh, và QSDĐ của mảnh đất đó có thể giao dịch trực tiếp.

KHI NÀO TIỀN CỌC BẢO ĐẢM TẠI VIỆT NAM CÓ THỂ BỊ MẤT?

Đặt cọc là một biện pháp bảo đảm.  Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng. Điều 328.2 của Bộ Luật Dân Sự 2015 quy định rằng bên nhận đặt cọc (tức là bên bên nhận bảo đảm) có thể sở hữu tiền gửi khi bên đặt cọc (tức là bên bảo đảm) “từ chối” thực hiện hợp đồng. Từ “từ chối” chỉ ra rằng bên có liên quan có thể cần phải từ chối rõ ràng việc thực hiện hợp đồng. Và Bộ Luật Dân Sự 2015 không rõ liệu việc không thực hiện có thể được coi là một sự từ chối thực hiện hợp đồng hay không. Để làm rõ điểm này, một thỏa thuận đặt cọc cần quy định rằng việc không thực hiện hợp đồng sẽ được coi là việc từ chối thực hiện hợp đồng.

NGHỊ QUYẾT MỚI CỦA TÒA ÁN TỐI CAO VỀ LÃI VAY TẠI VIỆT NAM

Vào ngày 11 tháng 1 năm 2019, Tòa án Tối cao đã ban hành Nghị Quyết 1 hướng dẫn áp dụng một số quy định về lãi, lãi suất và phạt vi phạm liên quan (Nghị Quyết 1/2019). Nghị Quyết 1/2019 sẽ có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 3 năm 2019. Dưới đây là một số quy định đáng chú ý của Nghị Quyết 1/2019

·         Nghị Quyết 1/2019 quy định rõ rằng giới hạn lãi suất của Bộ Luật Dân Sự 2005 và 2015 sẽ không áp dụng cho các hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Trước đây, đã có nhiều cuộc tranh luận liên quan đến việc liệu giới hạn lãi suất của Bộ Luật Dân Sự 2005 và 2015 có áp dụng cho các hợp đồng tín dụng hay không.

·         Nếu lãi suất, lãi quá hạn trên tiền gốc và lãi quá hạn trên lãi cao hơn giới hạn cho phép, thì tiền lãi vượt quá đã được trả sẽ được khấu trừ từ tiền gốc của khoản vay.

CHỮ KÝ ĐIỆN TỬ VÀ CHỮ KÝ SỐ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Theo Luật Giao Dịch Điện Tử, chữ ký điện tử được định nghĩa là được tạo ra dưới dạng từ, chữ viết, chữ số, ký hiệu, âm thanh hoặc dưới dạng khác bằng phương tiện điện tử, gắn liền hoặc kết hợp một cách lô ghích với thông điệp dữ liệu và có khả năng xác nhận người ký thông điệp dữ liệu và xác nhận sự đồng ý của người đó với nội dung thông điệp dữ liệu được ký.

Theo Điều 24.1 của Luật Giao Dịch Điện Tử, chữ ký điện tử của một cá nhân được gắn vào thông điệp dữ liệu sẽ có giá trị pháp lý tương đương với chữ ký của cá nhân đó được gắn với một tài liệu bằng văn bản nếu:

· Phương pháp tạo chữ ký điện tử cho phép xác minh được người ký và chứng tỏ được sự chấp thuận của người ký đối với nội dung của thông điệp dữ liệu; và