Tội Lừa Đảo Và Sử Dụng Sai Mục Đích Số Tiền Thu Được Từ Phát Hành Trái Phiếu Tại Việt Nam
Trong năm 2022, các cơ quan chức năng của Việt Nam đã đưa ra các cáo buộc đối với hai cổ đông lớn của Tân Hoàng Minh và Vạn Thịnh Phát về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Tội lừa đảo) theo Điều 174 Bộ Luật Hình Sự 2015. Báo chí đưa tin rằng các cá nhân liên quan đã thực hiện các hoạt động gian dối trong việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp và chiếm đoạt số tiền thu được từ phát hành trái phiếu của các nhà đầu tư mua trái phiếu. Tuy nhiên, để chứng minh một cá nhân phạm tội lừa đảo, các cơ quan chức năng sẽ cần đưa ra nhiều chứng cứ hơn để củng cố cho những lập luận của mình.
Điều 174 Bộ Luật Hình Sự 2015 quy định trách nhiệm hình sự đối với cá nhân chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối. Dựa trên ý kiến bình luận của các học giả uy tín (link 1, và link 2), tội lừa đảo có những đặc điểm sau:
· Chỉ cá nhân mới có thể bị xét xử về tội lừa đảo. Các công ty không thể bị xét xử về tội này. Theo đó, các tổ chức phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong các trường hợp trên không thể bị xét xử về tội lừa đảo;
· Người phạm tội phải có ý định chiếm đoạt tài sản của người khác. Để chiếm đoạt tài sản, người phạm tội phải nắm giữ đủ ba yếu tố của quyền sở hữu gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản. Nếu người phạm tội nắm giữ một hoặc hai yếu tố của quyền sở hữu thì đó không phải là tội lừa đảo. Trong một quy định tương tự, Bộ Luật Hình Sự 2015 áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người vay tiền của người khác nhưng, bên cạnh các yếu tố khác, không trả nợ khi khoản vay đến hạn mặc dù người đó có khả năng trả nợ. Quy định này cho thấy nếu khoản vay chưa đến hạn thì hành vi chiếm đoạt có thể chưa xảy ra. Theo đó, nếu trái phiếu được phát hành bởi các tổ chức phát hành liên quan chưa đến hạn thì không rõ liệu số tiền thu được từ phát hành trái phiếu có thể bị coi là bị chiếm đoạt bởi các cá nhân liên quan hay không;
· Nếu người phạm tội thực hiện hành vi gian dối nhưng không có ý định chiếm đoạt tài sản của người khác thì không phạm tội lừa đảo. Thay vào đó, đó có thể là tội sử dụng tài sản sai mục đích hoặc đơn giản là một vi phạm hợp đồng. Trong các trường hợp trên, số tiền thu được từ phát hành trái phiếu được cho là do các tổ chức phát hành liên quan nắm giữ chứ không phải do các cổ đông của các tổ chức này nắm giữ. Theo đó, không rõ liệu các cơ quan chức năng có chứng cứ chứng minh các cá nhân liên quan có ý định chiếm đoạt số tiền thu được từ phát hành trái phiếu hay không.
· Người phạm tội phải có ý định chiếm đoạt tài sản của người khác trước khi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Nếu ý định chiếm đoạt tài sản phát sinh sau khi người phạm tội đã nắm giữ tài sản thì tội phạm đó không phải là tội lừa đảo mà có thể là một tội phạm khác;
· Người phạm tội phải thực hiện hành vi gian dối trước khi chủ sở hữu tài sản giao tài sản cho người phạm tội. Nếu người phạm tội thực hiện hành vi gian dối sau khi đã chiếm đoạt tài sản thì tội đó không phải là tội lừa đảo mà có thể là tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 Bộ Luật Hình Sự 2015;
· Khi bình luận về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 Bộ Luật Hình Sự 2015, một số tác giả đưa ra ví dụ khi một bên vay tiền để thực hiện công việc A (ví dụ: mua ô tô) nhưng sau đó lại sử dụng tiền vay để thực hiện công việc B (ví dụ: hoàn trả khoản vay hiện có). Các tác giả cho rằng nếu công việc B là hợp pháp thì người có liên quan không tự động bị coi là sử dụng tiền cho mục đích bất hợp pháp. Mặc dù ví dụ này được viện dẫn cho tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, nhưng có thể cho rằng nó cũng có thể được dùng cho tội lừa đảo.
Bài viết được thực hiện bởi Nguyễn Quang Vũ với sự hỗ trợ nghiên cứu của Lưu Tuấn Hùng.