THÔNG TƯ MỚI VỀ ĐĂNG KÝ THẾ CHẤP VÀ CÁC GIAO DỊCH BẢO ĐẢM KHÁC TẠI VIỆT NAM

Vào ngày 20 tháng 6 năm 2018, Bộ Tư Pháp đã ban hành Thông Tư 8 về việc đăng ký và cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm và hợp đồng (Thông Tư 8/2018). Thông Tư 8/2018 sẽ thay thế Thông Tư 5/2011 về cùng lĩnh vực từ ngày 4 tháng 8 năm 2018.

Tên của đối tượng đăng ký

Đối tượng đăng ký theo Thông Tư 5/2011 là các giao dịch bảo đảm, phù hợp với Bộ Luật Dân Sự 2005. Tuy nhiên, thuật ngữ “giao dịch bảo đảm” là gần như đã được đưa ra khỏi Bộ Luật Dân Sự 2015 và việc đăng ký bây giờ là đăng ký biện pháp bảo đảm. Thông Tư 8/2018 áp dụng cách tiếp cận như vậy và xác định đối tượng đăng ký là biện pháp bảo đảm để phù hợp với Bộ Luật Dân Sự 2015 mới.

Biện pháp bảo đảm được đăng ký với NRAST

· Phạm vi biện pháp bảo đảm có thể được đăng ký với Cơ Quan Đăng Ký Quốc Gia về Giao Dịch Bảo Đảm (NRAST) tại Thông Tư 8/2018 hiện nay không bao gồm đăng ký cầm cố, đặt cọc, ký cược và ký quỹ. Thông Tư 5/2011 có quy định việc đăng ký các biện pháp bảo đảm này nhưng không đưa ra hướng dẫn chi tiết về cách thức đăng ký.

QUYỀN SỞ HỮU TIỀN GỬI NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM

Hoạt động kinh doanh cốt lõi của một ngân hàng (Ngân Hàng) là nhận tiền (Tiền Gửi) được gửi bởi khách hàng (Người Gửi) và cho vay những khoản tiền đó cho người vay. Do đó, về mặt pháp lý, điều quan trọng là cần xác định ai sở hữu Tiền Gửi. Đáng tiếc, luật ngân hàng Việt Nam không làm rõ việc liệu sau khi Người Gửi thực hiện gửi Tiền Gửi cho Ngân Hàng, Ngân Hàng hay Người Gửi sở hữu Tiền Gửi.

Trường hợp là Ngân Hàng

Kết luận hợp lô ghích nhất là:

· Ngân Hàng là chủ sở hữu của Tiền Gửi;

· Người Gửi không phải là chủ sở hữu của Tiền Gửi, nhưng Người Gửi có quyền theo hợp đồng để yêu cầu Ngân Hàng trả lại Tiền Gửi cho Người Gửi theo các điều khoản về Tiền Gửi; và

· Người vay sẽ sở hữu Tiền Gửi sau khi vay Tiền Gửi từ Ngân Hàng.

ĐỊNH NGHĨA VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH THEO LUẬT VIỆT NAM

Các quy định về ngân hàng của Việt Nam không đưa ra định nghĩa rõ ràng về cho thuê tài chính. Việc thiếu một định nghĩa rõ ràng có thể dẫn đến các rủi ro pháp lý không đáng có cho các bên tham gia giao dịch cho thuê xuyên biên giới (ví dụ: cho thuê máy bay). Ví dụ, nếu một hợp đồng thuê xuyên biên giới được xem là cho thuê tài chính, thì hợp đồng thuê đó có thể cần phải được đăng ký với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam như một khoản vay nước ngoài.

Theo Luật Các Tổ Chức Tín Dụng 2010, hoạt động cho thuê tài chính được định nghĩa là (1) cấp tín dụng trung và dài hạn; (2) trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính; và (3) thỏa mãn một trong các điều kiện sau:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ TẠI VIỆT NAM

Dưới đây là một số vấn đề pháp lý trong việc chuyển nhượng các khoản nợ (Khoản Nợ) từ một tổ chức tín dụng (Bên Khởi Tạo) cho một công ty được phép kinh doanh mua bán nợ tại Việt Nam (Công Ty Mua Bán Nợ). Giao dịch Khoản Nợ giữa một tổ chức tín dụng và một tổ chức tín dụng có lợi cho tổ chức tín dụng để xử lý nợ xấu hoặc phát hành chứng khoán được bảo đảm bằng tài sản:

·         Các tổ chức tín dụng được phép thương lượng lãi suất cho vay dựa trên cung cầu thị trường và tín nhiệm tín dụng mà không bị hạn chế lãi suất tối đa ngoại trừ một số trường hợp. Trong khi đó, lãi suất của khoản vay cấp bởi các tổ chức phi tín dụng phải tuân thủ mức lãi suất tối đa 20%/năm theo Bộ Luật Dân Sự 2015. Trên thực tế, lãi suất cho vay tiêu dùng khá cao và có thể cao hơn mức lãi suất tối đa 20%/năm. Nếu lãi suất của các Khoản Nợ cao hơn 20% mỗi năm, thì không rõ theo luật liệu Công Ty Mua Bán Nợ, khi sở hữu Khoản Nợ, có thể tiếp tục tính lãi suất như vậy hay không;