QUY ĐỊNH KHẮT KHE HƠN VỀ CẤP BẢO LÃNH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM

Theo Nghị định 4/2017, Chính phủ Việt Nam đã ban hành những quy định khắt khe hơn đối với việc cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ. Bảo lãnh Chính phủ theo Nghị định 4/2017 là bảo lãnh nhân danh Chính phủ Việt Nam (người bảo lãnh) cấp cho bên cho vay nước ngoài để bảo đảm khoản vay hoặc khoản phát hành trái phiếu được vay hoặc được cấp bởi các công ty ở Việt Nam. Theo đó:

  • Người vay (doanh nghiệp) phải đảm bảo hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu không vượt quá 3 lần theo báo cáo tài chính đã được kiểm toán năm gần nhất với thời điểm thẩm định cấp bảo lãnh chính phủ.
  • Nhóm cổ đông/thành viên sở hữu 65% vốn đầu tư của người vay phải đảm bảo nghĩa vụ trả nợ thay trong trường hợp người vay được bảo lãnh gặp khó khăn trong việc trả nợ. Một điểm rất thú vị ở Nghị định 4/2017 là hiện nay Chính phủ có thể bảo lãnh 100% khoản vay của người vay là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trước đây, Chính phủ chỉ có thể bảo lãnh một phần của khoản vay theo tỷ lệ số cổ phần Việt Nam trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
  • Chính phủ hiện tại chỉ có thể bảo lãnh tối đa lên đến 50% trên tổng số khoản nợ của dự án (trước đây là 80%). Khoản nợ được bảo đảm có thể tăng lên 70% đối với các dự án quan trọng hoặc khẩn cấp.
  • Trong nhiều dự án, nhà đầu tư phải mua bảo hiểm thanh toán nghĩa vụ thanh toán trả nợ trong trường hợp doanh nghiệp không có đủ nguồn tiền trả nợ. Tuy nhiên, không rõ liệu loại bảo hiểm này có áp dụng cho toàn bộ các khoản vay của nhà đầu tư hay chỉ áp dụng với khoản vay bảo lãnh chính phủ.
  • Phí bảo lãnh tăng từ 1.5% đến 2% trên số dư nợ được bảo lãnh.
  • Một ngân hàng đạt chuẩn phải được chỉ định như ngân hàng phục vụ để hỗ trợ và giám sát việc thực hiện dự án vay vốn được Chính phủ bảo lãnh và quản lý Tài khoản dự án. 

BA VẤN ĐỀ VỀ CHỦ NỢ CÓ BẢO ĐẢM TRONG TRƯỜNG HỢP DOANH NGHIỆP PHÁ SẢN

Nhìn chung, chủ nợ có bảo đảm sẽ có các quyền ưu tiên đối với tài sản của doanh nghiệp so với chủ nợ không có bảo đảm khi doanh nghiệp phá sản. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ Luật Phá Sản Việt Nam, quyền ưu tiên này cũng có cái giá của nó. Cụ thể:

·         Nếu trong hội nghị chủ nợ, các chủ nợ (bao gồm chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm) có quyền quyết định sử dụng tài sản bảo đảm để phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản thì chủ nợ có bảo đảm hoàn toàn không có quyền quyết định đối với tài sản cho mãi tới khi hội nghị chủ nợ kết thúc. Việc các chủ nợ có bảo đảm không có quyền bỏ phiếu trong hội nghị chủ nợ đã khiến cho các chủ nợ này bị mất ưu thế so với các chủ nợ không có bảo đảm;

·         Nếu chủ nợ có bảo đảm đã tiến hành xử lý tài sản bảo đảm và giá trị các tài sản bảo đảm nhỏ hơn giá trị khoản nợ của doanh nghiệp thì đáng ra lúc này chủ nợ có bảo đảm nên được coi là chủ nợ không có bảo đảm. Tuy nhiên, pháp luật Phá sản không quy định rõ trường hợp chủ nợ có bảo đảm được coi là chủ nợ không có bảo đảm đối với doanh nghiệp phá sản. Luật Phá sản cho phép chủ nợ có bảo đảm một phần được tham gia hội nghị chủ nợ. Thế nhưng việc phân loại chủ nợ (bao gồm phân loại thành chủ nợ có bảo đảm một phần) lại diễn ra quá sớm trong quy trình phá sản. Ngoài ra, luật cũng không quy định cụ thể về thủ tục sửa đổi danh sách chủ nợ trong trường hợp tài sản bảo đảm đã được xử lý; và

·         Một quyết định tại hội nghị chủ nợ có giá trị ràng buộc các bên được thông qua khi (i) quá nửa tổng số chủ nợ không có bảo đảm có mặt và (ii) số chủ nợ không có bảo đảm trong hội nghị chủ nợ đại diện cho ít nhất 65% tổng số nợ không có bảo đảm. Như vậy, dựa vào câu chữ của luật, chủ nợ không có bảo đảm một phần không có quyền bỏ phiếu trong hội nghị chủ nợ. Không rõ vì sao Luật Phá Sản 2014 lại có quy định như vậy. Bởi lẽ việc tính phiếu bầu trong hội nghị chủ nợ nên được dựa trên khoản nợ không có bảo đảm chứ không phải dựa trên số lượng chủ nợ không có bảo đảm.

Bài viết được đóng góp bởi Nguyễn Hoàng Duy - luật sư cộng sự tại Venture North Law.