HÀNH ĐỘNG TẬP THỂ BỞI TRÁI CHỦ TẠI VIỆT NAM

Cơ chế hành động tập thể giữa các trái chủ là một trong những điểm phổ biến trong các điều khoản và điều kiện của trái phiếu doanh nghiệp.  Hai đặc điểm quan trọng của cơ chế hành động tập thể là:

· Việc sử dụng Đại Diện Được Ủy Nhiệm (Bond Trustee) để hành động vì lợi ích của trái chủ; và

· Việc sử dụng Hội nghị của các Trái Chủ cho phép việc đưa ra một quyết định của đa số (hoặc đại đa số) trái chủ liên quan đến trái phiếu (ví dụ: thay đổi các điều khoản của trái phiếu) để ràng buộc các trái chủ thiểu số không đồng ý với quyết định đó.

Có thể cho rằng, nếu các điều khoản về cuộc họp của các trái chủ được quy định trong các điều khoản của trái phiếu và trái chủ đồng ý với điều khoản đó thì các quy định về giao dịch dân sự theo Bộ Luật Dân Sự 2015 có thể cho phép việc sử dụng cuộc họp của các trái chủ tại Việt Nam. Tuy nhiên, hiệu lực của quyết định được đưa ra tại cuộc họp trái chủ trong đó không được chấp thuận bởi tất cả các trái chủ vẫn còn là một câu hỏi theo luật pháp Việt Nam. Điều này là bởi:

XÁC ĐỊNH THỜI HẠN HẠN HỢP ĐỒNG THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 2015

Thông thường, một hợp đồng sẽ quy định một điều khoản xác định thời hạn có hiệu lực của hợp đồng đó. Trong điều khoản đó, những thời điểm hợp đồng có hiệu lực và chấm dứt hiệu lực được xác định, cho dù bằng một khoảng thời gian hoặc sự kiện nhất định. Tuy nhiên, Bộ Luật Dân Sự 2015 không có bất kỳ quy định nào về “thời hạn” của các hợp đồng. Thay vào đó, Bộ Luật Dân Sự 2015 có các quy định riêng cho (i) thời hạn và (ii) thời điểm hợp đồng có hiệu lực và các trường hợp chấm dứt hợp đồng.

Theo Bộ Luật Dân Sự 2015, theo mặc định, việc bắt đầu một thời hạn bằng cách tham chiếu đến một sự kiện sẽ bắt đầu vào ngày ngay sau ngày diễn ra sự kiện đó chứ không phải là ngày diễn ra sự kiện. Do đó, nếu thời hạn của hợp đồng được xác định là bắt đầu vào ngày ký, hợp đồng thực tế sẽ có hiệu lực vào ngày hôm sau, điều có thể không phải là dự tính của các bên. Vì thế, một hợp đồng có thể có hiệu lực vào ngày ký nếu (1) được pháp luật quy định như vậy hoặc (2) các bên đồng ý về một phương pháp khác để tính thời hạn.

CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM - CÔNG NGHỆ CÓ PHẢI LÀ MỘT TÀI SẢN?

Luật Chuyển Giao Công Nghệ 2017 được soạn thảo dựa trên giả định rằng một công nghệ (công nghệ ) có thể được chuyển giao như một tài sản (tài sản). Nhưng theo các quy định của Bộ Luật Dân Sự 2015, có thể phải đặt ra câu hỏi liệu công nghệ có phải là tài sản không?

Chuyển giao công nghệ có nghĩa là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng công nghệ từ bên chuyển nhượng sang bên nhận chuyển nhượng. Ngoài ra, Điều 7 của Luật Chuyển Giao Công Nghệ 2017 nói rằng chủ sở hữu công nghệ có thể chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc cấp quyền sử dụng công nghệ đó. Do đó, Luật Chuyển Giao Công Nghệ 2017 ngụ ý rằng, để chuyển giao một công nghệ, bên chuyển nhượng phải có quyền sở hữu công nghệ đó. Theo Bộ Luật Dân Sự 2015, quyền sở hữu chỉ có thể được hình thành đối với một tài sản. Vì vậy, công nghệ theo Luật Chuyển Giao Công Nghệ 2017 phải là một tài sản.

Tuy nhiên, công nghệ theo định nghĩa của Luật Chuyển Giao Công Nghệ 2017 có thể không phải là một tài sản. Điều 2.2 của Luật Chuyển Giao Công Nghệ 2017 định nghĩa công nghệ là một giải pháp, quy trình và bí quyết có thể biến đổi nguồn lực thành sản phẩm. Điều 105 của Bộ Luật Dân Sự 2015 nói rằng tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá, và quyền tài sản.

THÔNG TƯ MỚI VỀ ĐĂNG KÝ THẾ CHẤP VÀ CÁC GIAO DỊCH BẢO ĐẢM KHÁC TẠI VIỆT NAM

Vào ngày 20 tháng 6 năm 2018, Bộ Tư Pháp đã ban hành Thông Tư 8 về việc đăng ký và cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm và hợp đồng (Thông Tư 8/2018). Thông Tư 8/2018 sẽ thay thế Thông Tư 5/2011 về cùng lĩnh vực từ ngày 4 tháng 8 năm 2018.

Tên của đối tượng đăng ký

Đối tượng đăng ký theo Thông Tư 5/2011 là các giao dịch bảo đảm, phù hợp với Bộ Luật Dân Sự 2005. Tuy nhiên, thuật ngữ “giao dịch bảo đảm” là gần như đã được đưa ra khỏi Bộ Luật Dân Sự 2015 và việc đăng ký bây giờ là đăng ký biện pháp bảo đảm. Thông Tư 8/2018 áp dụng cách tiếp cận như vậy và xác định đối tượng đăng ký là biện pháp bảo đảm để phù hợp với Bộ Luật Dân Sự 2015 mới.

Biện pháp bảo đảm được đăng ký với NRAST

· Phạm vi biện pháp bảo đảm có thể được đăng ký với Cơ Quan Đăng Ký Quốc Gia về Giao Dịch Bảo Đảm (NRAST) tại Thông Tư 8/2018 hiện nay không bao gồm đăng ký cầm cố, đặt cọc, ký cược và ký quỹ. Thông Tư 5/2011 có quy định việc đăng ký các biện pháp bảo đảm này nhưng không đưa ra hướng dẫn chi tiết về cách thức đăng ký.