THỨ TỰ ƯU TIÊN THANH TOÁN GIỮA CÁC GIAO DỊCH BẢO ĐẢM KHÔNG PHÁT SINH HIÊU LỰC ĐỐI KHÁNG

Theo quy định tại Điều 308 của BLDS 2015, trường hợp các giao dịch bảo đảm liên quan tới cùng một tài sản không phát sinh hiệu lực đối kháng với một bên thứ ba (giao dịch bảo đảm không phát sinh hiệu lực đối kháng), thứ tự thanh toán sẽ được xác định theo thứ tự xác lập các giao dịch bảo đảm không phát sinh hiệu lực đối kháng. Điều 47a của Nghị Định 163/2006 cũng đưa ra quy định tương tự về thứ tự ưu tiên thanh toán giữa bên nhận bảo lãnh với các giao dịch không phát sinh hiệu lực đối kháng khác. Cụ thể, thứ tự ưu tiên thanh toán giữa bên nhận bảo lãnh với các giao dịch không phát sinh hiệu lực đối kháng khác cũng sẽ được xác định theo thứ tự mà các giao dịch đó được xác lập.

Có một số vấn đề pháp lý phát sinh từ các quy định này như sau:

·         Nếu một giao dịch bảo đảm không phát sinh hiệu lực đối khác với một bên thứ ba thì về mặt lô gich, giao dịch đó cũng sẽ không phát sinh hiệu lực đối kháng với các giao dịch khác. Tuy nhiên, Điều 308 của BLDS 2015 đã làm cho một giao dịch bảo đảm không phát sinh hiệu lực đối kháng trở nên đối kháng với các giao dịch bảo đảm không phát sinh hiệu lực đối kháng khác được giao kết sau giao dịch đó;

NĂNG LỰC PHÁP LUẬT CỦA CHI NHÁNH CÔNG TY TẠI VIỆT NAM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015

Theo quy định của Bộ Luật Dân Sự 2015 (BLDS 2015), năng lực pháp luật của chi nhánh bị hạn chế. Cụ thể là, chi nhánh không thể nhân danh chính mình giao kết hợp đồng bởi vì nó không phải là pháp nhân hay thể nhân tự nhiên. Bên cạnh đó, trong khi không hoàn toàn rõ ràng (xem phía dưới), có quan điểm cho rằng chi nhánh không còn khả năng đại diện cho công ty mẹ của mình. Vì vậy, không rõ là liệu một hợp đồng ký bởi chi nhánh với tư cách là đại diện cho công ty mẹ có giá trị pháp lý theo quy định mới của BLDS 2015 hay không. Điều này là bởi theo quy định của BLDS 2015,

·         Chỉ có thể nhân tự nhiên và pháp nhân mới có thể tự nhân danh chính mình giao kết hợp đồng;

·         Chỉ có thể nhân tự nhiên hoặc pháp nhân có thể trở thành người đại diện cho một người khác (thể nhân tự nhiên hoặc pháp nhân); và

·         BLDS 2005 đã từng quy định rằng chức năng của chi nhánh bao gồm chức năng đại diện theo ủy quyền. Tuy nhiên, quy định này đã bị loại bỏ khỏi BLDS 2015.

MUA CỔ PHIẾU TỪ MỘT CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM

Khi mua cổ phiếu niêm yết của một công ty cổ phần đại chúng (CTCP Đại Chúng) từ một cá nhân bán cổ phiếu thông qua tài khoản chứng khoán của người đó, người mua sẽ không phải xác định quyền bán của cá nhân đó đối với số cổ phần đã niêm yết theo Luật Hôn Nhân và Gia Đình 2014 nếu:

·           cổ phiếu niêm yết không phải là nguồn thu nhập chính của người bán và vợ/chồng của người đó (nếu người bán đã kết hôn); và

·           người mua là một người mua ngay tình không biết và không phải biết rằng người bán đã kết hôn hoặc không có quyền bán số cổ phiếu niêm yết đó theo Luật Hôn Nhân và Gia Đình 2014.

Bộ Luật Dân Sự 2015 – Rủi ro cho bên chuẩn bị dự thảo đầu tiên của hợp đồng tại Việt Nam

Điều 404.6 Bộ Luật Dân Sự 2015 quy định, trường hợp bên soạn thảo bổ sung thêm nội dung hợp đồng mà gây bất lợi cho bên kia thì hợp đồng sẽ được giải thích theo hướng có lợi cho bên kia. Quy định này không chỉ áp dụng cho hợp đồng tiêu dùng mà còn áp dụng với các hợp đồng thương mại giữa hai bên đã có kinh nghiệm thương mại (commercially sophisticated party). Theo đó, có rủi ro là bên soạn thảo hợp đồng thương mại có thể phải chịu rủi ro hợp đồng sẽ được giải thích theo hướng có lợi cho bên kia khi phát sinh tranh chấp trong tương lai. Do đó, các bên, khi đàm phán hợp đồng, cần lưu tâm đến điều khoản nào được soạn thảo bởi bên nào trong hợp đồng.

Rất khó để hiểu được lý luận của Điều 404.6 Bộ Luật Dân Sự 2015. Khi một bên đưa vào hợp đồng một điều khoản, túc là bên đó đang hành động để bảo vệ lợi ích của mình trong hợp đồng, và trong nhiều trường hợp, điều khoản đó có thể gây bất lợi đối với bên còn lại. Đây là lý do tại sao các bên cần phải đàm phán với nhau để đạt được thỏa thuận thống nhất. Và thỏa thuận đó có thể là kết quả của quá trình thương lượng, đàm phán phức tạp giữa các bên. Một bên có thể chấp nhận một điều khoản bất lợi đối với mình trong hợp đồng, để đối lại một điều khoản có lợi khác trong hợp đồng. Nếu luật quy định, tòa án hoặc trọng tài giải thích một điều khoản được đưa ra bởi một bên như trên theo hướng có lợi cho bên còn lại thì việc này có thể làm ảnh hưởng đến thỏa thuận của hai bên trong hợp đồng, bởi lẽ các bên không thể chắc chắn rằng, nội dung của hợp đồng sẽ được giải thích theo ý chí thỏa thuận ban đầu của các bên.

Một điều khoản quy định rằng, hợp đồng sẽ không được giải thích theo hướng bất lợi cho bên soạn thảo Hợp đồng trên cơ sở bên đó đã soạn thảo hợp đồng này hoặc bất cứ phần nào của hợp đồng, sẽ giảm thiểu rủi ro phát sinh tại Điều 404.6 của Bộ Luật Dân Sự 2015. Tuy nhiên, dưới sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, các bên trong hợp đồng có thể cân nhắc thêm vào hợp đồng một điều khoản quy định rằng, hợp đồng đã được soạn thảo bởi tất cả các bên và theo đó Điều 404.6 Bộ Luật Dân Sự 2015 sẽ không áp dụng cho việc giải thích hợp đồng.