Nghị Định 53/2022 hướng dẫn thi hành Luật An Ninh Mạng tại Việt Nam

Vào tháng 8 năm 2022, Chính Phủ đã ban hành Nghị Định 53/2022 để hướng dẫn thi hành các điều khoản của Luật An Ninh Mạng 2018 (Luật ANM 2018). Chúng tôi tóm tắt một vài điểm quan trọng của Nghị Định 53/2022 như dưới đây:

  • Nội địa hóa dữ liệu: Nghị ĐỊnh 53/2022 quy định hướng dẫn chi tiết về nội địa hóa dữ liệu tại Việt Nam. Vui lòng xem bài viết riêng về vấn đề này tại Đây .

  • Sử dụng mật mã để để bảo vệ thông tin mạng: Nếu cần thiết vì lý do an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, cơ quan có thẩm quyền có thể yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện mã hóa các thông tin không nằm trong phạm vi bí mật nhà nước trước khi tiến hành lưu trữ, truyền đưa trên mạng Internet;

Dự thảo Nghị Định Mới về Bảo Vệ Dữ Liệu Cá Nhân tại Việt Nam

Ngày 9 tháng 2 năm 2021, Bộ Công An đã ban hành dự thảo Nghị định về bảo vệ dữ liệu cá nhân (Dự Thảo Nghị Định). Nghị định này sau khi được ban hành sẽ là đạo luật toàn diện đầu tiên của Việt Nam về dữ liệu cá nhân. Blog này sẽ phân tích một số điểm chính của Dự Thảo Nghị Định và so sánh chúng với các điều khoản liên quan theo Quy Định Chung về Bảo Bệ Dữ Liệu (GDPR).[1] Bài viết do Nguyễn Thu Giang thực hiện và Nguyễn Quang Vũ biên tập.

1) Phạm vi áp dụng

a) Trong khi GDPR liệt kê các trường hợp không thuộc phạm vi điều chỉnh của GDPR, Dự Thảo Nghị Định có xu hướng điều chỉnh toàn diện mọi loại hoạt động liên quan đến dữ liệu cá nhân ở Việt Nam, cả về mặt nội dung và lãnh thổ.

QUY ĐỊNH VỀ CHỮ KÝ SỐ TẠI VIỆT NAM

Thế giới đã chứng kiến bước tiến nhảy vọt trong các hoạt động thương mại điện tử và các hoạt động trực tuyến (họp trực tuyến, ký kết các hợp đồng điện tử, ký kết các nghị quyết điện tử) trước tình hình đại dịch Covid-19 toàn cầu và Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Bài viết sẽ bàn luận về một vài đặc tính của chữ ký số và việc chứng thực chữ ký số theo luật pháp Việt Nam.

1) Nhìn chung, pháp luật Việt Nam thừa nhận tính hợp pháp của hợp đồng điện tử và chữ ký điện tử theo điều kiện luật định. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ thể, trên thực tế chữ ký số (trái với các dạng chữ ký điện tử thông thường khác) có thể được các bên đặc biệt yêu cầu vì tính bảo mật của loại chữ ký này. Chữ ký số là một loại chữ ký điện tử được tạo ra bằng sự biến đổi thông điệp dữ liệu sử dụng hệ thống mật mã không đối xứng, theo đó, người có được thông điệp dữ liệu ban đầu và khóa công khai của người ký có thể xác định được chính xác (a) việc biến đổi này được tạo ra bằng đúng khóa bí mật tương ứng với khóa công khai trong cùng một cặp khóa và (b) sự toàn vẹn của nội dung thông điệp kể từ khi thực hiện sự biến đổi này (Điều 3.6, Nghị Định 130 của Chính Phủ ngày 27 tháng 9 năm 2018 hướng dẫn Luật Giao Dịch Điện Tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số (Nghị Định 130/2018))

CHỮ KÝ ĐIỆN TỬ VÀ CHỮ KÝ SỐ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Theo Luật Giao Dịch Điện Tử, chữ ký điện tử được định nghĩa là được tạo ra dưới dạng từ, chữ viết, chữ số, ký hiệu, âm thanh hoặc dưới dạng khác bằng phương tiện điện tử, gắn liền hoặc kết hợp một cách lô ghích với thông điệp dữ liệu và có khả năng xác nhận người ký thông điệp dữ liệu và xác nhận sự đồng ý của người đó với nội dung thông điệp dữ liệu được ký.

Theo Điều 24.1 của Luật Giao Dịch Điện Tử, chữ ký điện tử của một cá nhân được gắn vào thông điệp dữ liệu sẽ có giá trị pháp lý tương đương với chữ ký của cá nhân đó được gắn với một tài liệu bằng văn bản nếu:

· Phương pháp tạo chữ ký điện tử cho phép xác minh được người ký và chứng tỏ được sự chấp thuận của người ký đối với nội dung của thông điệp dữ liệu; và