Điểm mới của Luật Các Tổ Chức Tín Dụng 2024 (Phần 3)
Bài viết này tiếp tục thảo luận về một số thay đổi khác của Luật Các Tổ Chức Tín Dụng 2024 (Luật CTCTD 2024). Để biết các nội dung đã được thảo luận trong Phần 1, vui lòng xem tại đây, trong Phần 2, vui lòng xem tại đây.
1. Bình luận thêm về đại lý quản lý tài sản bảo đảm
Như đã đề cập trong Phần 2, Luật CTCTD 2024 cho phép hoạt động đại lý quản lý tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, các quy định liên quan của Luật CTCTD 2024 có những hạn chế như sau:
1.1. quy định đó không làm rõ bản chất của đại lý quản lý tài sản bảo đảm và quan hệ đó là quan hệ đại diện hay ủy quyền theo quy định của Bộ Luật Dân Sự. Theo Luật CTCTD 2024, hoạt động đại lý quản lý tài sản bảo đảm được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan, mà không làm rõ các quy định của pháp luật liên quan là quy định nào; và
1.2. Luật CTCTD 2024 không quy định chi tiết đại lý quản lý tài sản bảo đảm có thể làm những gì (ví dụ như định nghĩa đại lý quản lý tài sản bảo đảm hoặc vai trò của đại lý quản lý tài sản bảo đảm).
2. Phân loại mới cho nghiệp vụ thư tín dụng
Luật CTCTD 2024 không còn phân loại nghiệp vụ thư tín dụng là một loại dịch vụ thanh toán qua tài khoản. Luật CTCTD 2024 hiện tại định nghĩa thư tín dụng là một hình thức cấp tín dụng thông qua nghiệp vụ phát hành, xác nhận, thương lượng, thanh toán và hoàn trả thư tín dụng.
3. Quy định nhiều hơn các trường hợp can thiệp sớm
Khái niệm can thiệp sớm được giới thiệu lần đầu tiên trong lần sửa đổi năm 2017 đối với Luật CTCTD 2010. Luật CTCTD 2024 giới thiệu các trường hợp mới và áp dụng một mức thấp hơn cho một số trường hợp can thiệp sớm khác. Theo Luật CTCTD 2024, can thiệp sớm có thể được áp dụng đối với một tổ chức tín dụng (TCTD) trong các trường hợp sau:
3.1 số lỗ lũy kế của TCTD lớn hơn 15% giá trị của vốn điều lệ, vốn được cấp và các quỹ dự trữ ghi trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất hoặc theo kết luận thanh tra, kiểm toán của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu bị vi phạm;
3.2 TCTD bị xếp hạng dưới mức trung bình theo quy định của Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước;
3.3 TCTD vi phạm tỷ lệ khả năng chi trả tối thiểu trong 30 ngày liên tục;
3.4 TCTD vi phạm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu trong thời gian 6 tháng liên tục; hoặc
3.5 việc rút tiền hàng loạt xảy ra, và TCTD có báo cáo gửi Ngân Hàng Nhà Nước.
4. Phương án khắc phục dự kiến trong trường hợp được can thiệp sớm
Luật CTCTD 2024 giới thiệu một yêu cầu mới rằng các TCTD đang tồn tại phải chuẩn bị một phương án khắc phục dự kiến trong trường hợp được can thiệp sớm và phương án đó phải được thông qua hợp lệ bởi cơ quan có thẩm quyền nội bộ trước ngày 1 tháng 7 năm 2025. Phương án đó phải được chuẩn bị kể cả khi một TCTD không rơi vào trường hợp can thiệp sớm. Nếu không có phương án được phê duyệt, TCTD có thể phải chịu các giới hạn giống như trong trường hợp Ngân Hàng Nhà Nước áp dụng biện pháp can thiệp sớm.
Đối với một TCTD mới được thành lập, TCTD phải chuẩn bị phương án khắc phục dự kiến trong trường hợp được can thiệp sớm trong vòng 1 năm kể từ ngày được cấp giấy phép hoạt động.
5. Sửa đổi các trường hợp kiểm soát đặc biệt
Theo Luật CTCTD 2024, biện pháp kiểm soát đặc biệt có thể được áp dụng trong các trường hợp sau:
5.1 TCTD được can thiệp sớm không có phương án khắc phục gửi Ngân Hàng Nhà Nước hoặc không điều chỉnh phương án khắc phục theo yêu cầu bằng văn bản của Ngân Hàng Nhà Nước;
5.2 trong thời hạn thực hiện phương án khắc phục của biện pháp can thiệp sớm, TCTD không có khả năng thực hiện phương án khắc phục;
5.3 TCTD không khắc phục được nguyên nhân dẫn đến can thiệp sớm khi hết thời hạn thực hiện phương án khắc phục;
5.4 việc rút tiền hàng loạt xảy ra và có nguy cơ mất an toàn hệ thống TCTD;
5.5 tỷ lệ an toàn vốn của TCTD thấp hơn 4% trong thời gian 6 tháng liên tục; hoặc
5.6 TCTD bị giải thể không có khả năng thanh toán đầy đủ các khoản nợ trong quá trình thanh lý tài sản.
6. Pháp điển hóa các quy định về xử lý nợ xấu
Luật CTCTD 2024 pháp điển hóa một số quy định của Nghị Quyết 42 của Quốc Hội ngày 21 tháng 7 năm 2017 về thí điểm chính sách xử lý nợ xấu của các TCTD (Nghị Quyết 42). So sánh với Nghị Quyết 42, các quy định của Luật CTCTD 2024 về xử lý nợ xấu có một số khác biệt đáng kể như sau:
6.1 Luật CTCTD 2024 không yêu cầu giá bán nợ xấu phải là giá thị trường;
6.2 Luật CTCTD 2024 không quy định các TCTD có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu;
6.3 Luật CTCTD 2024 không quy định rằng tranh chấp liên quan đến việc giao tài sản bảo đảm hoặc quyền xử lý tài sản bảo đảm sẽ được thực hiện theo thủ tục rút gọn;
6.4 Luật CTCTD 2024 xóa bỏ việc miễn kê biến đối với tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu; và
6.5 theo Luật CTCTD 2024, án phí của bản án, quyết định của tòa án và thuế, lệ phí trực tiếp liên quan đến việc chuyển nhượng tài sản bảo đảm (bao gồm thuế thu nhập cá nhân và lệ phí trước bạ) sẽ có thứ tự ưu tiên cao hơn khi thanh toán số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.
7. Các quy định chuyển tiếp đáng chú ý
Luật CTCTD 2024 có các quy định chuyển tiếp đáng chú ý như sau:
7.1 các TCTD đang tồn tại không cần phải xin lại giấy phép hoạt động;
7.2 các hợp đồng đã được ký không xác định thời hạn có nội dung không phù hợp với Luật CTCTD 2024 sẽ được tiếp tục đến hết ngày 30 tháng 6 năm 2025;
7.3 các tài sản bảo đảm cho các khoản nợ xấu mà là dự án bất động sản và đã được thu giữ theo Nghị Quyết 42 hoặc đang thực hiện thủ tục chuyển nhượng theo Điều 10 của Nghị Quyết 42 được tiếp tục áp dụng Điều 10 của Nghị Quyết 42 cho đến khi xử lú xong;
7.4 lãi dự thu của các khoản nợ xấu và chênh lệch giữa giá trị ghi sổ và giá bán của khoản nợ xấu và số tiền dự phòng cụ thể đã trích lập cho khoản nợ này, đang được phân bổ theo Điều 16 của Nghị Quyết 42 được tiếp tục thực hiện cho đến hết ngày 14 tháng 8 năm 2027;
7.5 nhìn chung, những người quản lý của các TCTD không đáp ứng yêu cầu của Luật CTCTD 2024 có thể tiếp tục làm việc đến hết nhiệm kỳ. Đối với các TCTD là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và có nhiều hơn 9 thành viên hội đồng thành viên, hội đồng thành viên đó phải giảm số thành viên trước ngày 1 tháng 7 năm 2025; và
7.6 các TCTD đã được cấp phép tương ứng để thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán và thư tín dụng trước ngày 1 tháng 7 năm 2024 được tiếp tục thực hiện các nghiệp vụ này và các dịch vụ khác liên quan đến bao thanh toán và thư tín dụng mà không phải sửa đổi giấy phép hoạt động đang có.
Bài viết này được viết bởi Nguyễn Hoàng Duy và chỉnh sửa bởi Nguyễn Quang Vũ.