QUYỀN NHẬP KHẨU THAN CỦA DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
Theo Công văn 2179 (tháng 10/2016) của Tổng cục Năng lượng – Bộ Công Thương (GDE) trả lời Tổng cục Hải quan về việc nhập khẩu than, theo đó các dự án điện của các Tập đoàn và các doanh nghiệp nếu muốn nhập khẩu than trực tiếp sẽ cần phải xin được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ. Để làm rõ cho hướng dẫn trên, trong Công văn của mình, Tổng cục Năng lượng nêu ra 2 cơ sở sau:
· Theo quy định của pháp luật về đầu tư, kinh doanh than là ngành nghề kinh doanh có điều kiện; và
· Theo hướng dẫn của Thủ tướng trong Thông báo số 346 ngày 28/6/2014 của Văn phòng Chính phủ về thực hiện nhập khẩu than. Cụ thể, trong thông báo này, Thủ tướng đề xuất rằng các dự án điện của các Tập đoàn và các doanh nghiệp phải nhập khẩu than thông qua đầu mối nhập khẩu là Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam hoặc doanh nghiệp than thuộc sở hữu Nhà nước.
Có kẽ hở trong cả hai cơ sở trên. Đối với cơ sở thứ nhất, cỏ vẻ như là Tổng cục Năng lượng đã nhầm lẫn giữa việc nhập khẩu than là một phần của quá trình sản xuất (ví dụ doanh nghiệp nhập khẩu than để làm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất điện) và nhập khẩu than là một phần của hoạt động kinh doanh (ví dụ doanh nghiệp nhập khẩu than để bán). Có thể thấy các quy định về hàng hóa kinh doanh có điều kiện của pháp luật về đầu tư là nhằm để điều chỉnh hoạt động thứ 2 - hoạt động kinh doanh.
Về cở sở thứ hai, việc chỉ định doanh nghiệp phải sử dụng than từ các doanh nghiệp Nhà nước được chỉ định đã trái với nguyên tắc Bảo đảm hoạt động đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp theo Điều 10.1 luật Đầu tư 2014. Điều khoản này quy định “Nhà nước không bắt buộc nhà đầu tư phải mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ từ nhà sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ trong nước.”